Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Trần Dần: GHI CHÉP VỀ CCRĐ Ở BẮC NINH 1955 - 1956 (Phần I)


Ghi chép về Cải cách Ruộng đất ở Bắc Ninh
1955-1956 (Phần I)
Trần Dần
Phạm Thị Hoài biên soạn 
21-09-2014
Lời dẫn của Phạm Thị Hoài: 

Sau đợt „vi phạm kỉ luật“ lần thứ nhất và bị giam kiểm thảo từ 13/6 đến 14/9/1955 [1], nhà thơ Trần Dần được cử đi dự hội nghị tổng kết đợt 4 và tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, đợt cuối cùng của cuộc cách mạng „long trời lở đất“ ở nông thôn Việt Nam sáu mươi năm trước. Phổ biến với tên gọi „đi thực tế“, đó là hình thức đưa các văn nghệ sĩ và trí thức vào „thực tế cách mạng“ của công nhân, nông dân và binh sĩ, trụ cột của liên minh quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, để thúc đẩy và củng cố „giác ngộ giai cấp“ của tầng lớp trí thức, vốn được gắn với ý thức hệ tiểu tư sản, hay dao động và thiếu „tinh thần cách mạng triệt để“. Không chỉ riêng Trần Dần đi thực tế. Trong cuốn sổ ghi chép năm 1955 của mình, ông ghi: „Hoàng Yến [2] than phiền: Mình đi CCRĐ. Ai thấy mình cũng thành kiến là mình đả Tố Hữu, đả Trung uơng. Thành thử khó làm ăn quá.“ Ngày 2/11/1955, ông ghi: „Trước khi đi, Văn Phác [3] họp một số anh em, những Văn Cao, Lương Ngọc Trác [4], [...], Đỗ Nhuận để dặn dò. Văn Cao: Tôi thấy đi có lợi lắm, [...] dĩ nhiên là lợi lắm. Trước kia đồng chí Trần Dần hay tự do sinh hoạt, tôi lo nhỡ ra đồng chí Trần Dần lại khuyết điểm thì bỏ mẹ chúng mình. [...]“

Ngày 3/11, Trần Dần đến Bắc Ninh, được phân công vào đội Thái Hoà ở xóm Thịnh Lang, Đình Bảng. Thời gian dự hội nghị tổng kết đợt 4 được ông ghi lại như sau:

6/11: Khai mạc – 1 ngày  
6-9/11: Học nghị quyết trung ương – 4 ngày  
11-18/11: Báo cáo Đảng – 7 ngày  
19-22/11: Kinh nghiệm cụ thể một số vấn đề – 4 ngày  
23-27/11: Chỉnh đốn tổ chức – 5 ngày  
28/11- 4/12: Chỉnh huấn – 7 ngày
5-14/12: Sắp xếp đội ngũ, khái quát 4 bước, kinh nghiệm, sản xuất, công giáo, kế hoạch buớc 1-10 ngày  
Cộng: 38 ngày

Tháng 2/1956 ông đã quay lại Hà Nội, như vậy ông chỉ tham quan hai tháng đầu của đợt 5, còn chủ yếu là tham dự hội nghị tổng kết đợt 4, nhưng có lẽ chỉ ở tư cách dự thính. Ông ghi:

Đoàn ủy viên bảo TD: – Sớm nay đi họp đảng viên nhé.

TD: – Tôi không được họp.
 
Đoàn ủy viên im lặng không nói gì. Lát sau đồng chí Khoa lại bảo TD đi họp.
 
TD: – Tôi không được họp. TD đem ít báo CCRĐ đợt 4 ra đầu ngõ ngồi xem. Ngõ rải đầy rơm mới xanh úa, nắng nửa ngõ, bóng râm nửa ngõ. Gà nó bới tung cả rơm. Một bà xi con đái đầu ngõ. Mấy đứa trẻ lăn lộn tùng phèo trên đống rơm. Trong nhà họp Đảng. TD muốn để cả tâm trí vào tờ báo, song lại lơ đãng nhìn nắng, nhìn rơm, những ý nghĩ nó để đi đâu. TD đứng dậy không thèm rũ rơm, đi tìm một cái quán ngồi ăn chút gì, nói chuyện với bà hàng, nghĩ đi đâu, nhưng chợt lại nhớ rằng ở nhà Đảng đang họp. TD không được họp.

Như vậy ghi chép của ông về CCRĐ là những thu hoạch từ hội nghị tổng kết đợt 4 này, không phải từ trải nghiệm trực tiếp, vì thế chúng cũng không được đề ngày tháng nối tiếp như các ghi chép mang tính nhật kí khác. Tuy vậy, những trang „ghi nóng“ này, ngay giữa cao trào của CCRĐ, là những tư liệu lịch sử quý giá, lẽ ra chúng phải chiếm một vị trí đặc biệt trong một triển lãm về CCRĐ. Tôi đã đưa một phần những ghi chép này vào cuốn Trần Dần: Ghi 1954-1960, do nhà Văn Nghệ ở California in năm 2001. Nhân sự kiện cuộc triển lãm về CCRĐ tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội phải đóng cửa sau vài ngày, đánh thức sự quan tâm mạnh mẽ của dư luận về một chương đau đớn trong lịch sử Việt Nam, tôi bổ sung vào phần đã công bố nhiều đoạn khác, mong được một công luận rộng rãi tại Việt Nam tiếp cận.

Những nghiệm thu của Trần Dần đặc biệt thú vị vì một mặt ông vẫn còn là một „cán bộ“ trong guồng máy tuyên truyền của Đảng, chấp hành về căn bản những đường lối lớn của Đảng; thậm chí quan sát thực tế CCRĐ qua một lăng kính và một bộ lọc thông tin chính thống hoặc không xa chính thống. Mặt khác, cũng chính thực tế đó đã khiến ông không hòa giải được với Đảng của mình mà ngược lại. Số phận bất đồng chính kiến mà ông vừa bắt đầu đã đi tiếp những kịch tính của nó, để rồi dẫn đến Nhân văn-Giai phẩm không lâu sau đó mà tín hiệu rõ ràng nhất là truyện ngắn „Anh Cò Lấm“ viết về CCRĐ của ông, với bút danh Trần Bá Xá. Cuối tháng 1/1956, tạp chí Tổ quốc số 27 đăng truyện ngắn này. Đầu tháng 3/1956, cũng tạp chí này, số 30, đăng lời „Tự phê bình“ gay gắt vì đã „sai lầm nghiêm trọng“, không nhận ra „mánh khóe tinh vi“,„tính chất phản động“ của tác phẩm đó [5]. Nhân văn-Giai phẩm rất cần đặt chung với Cải cách Ruộng đất trong cùng một khung cảnh chính trị.

Bản gốc các sổ ghi chép của Trần Dần vẫn được lưu tại gia đình ông. Bản chụp tôi có trong tay nhiều đoạn không đọc rõ, sau đây được kí hiệu bằng dấu [...]. Khi biên soạn những cuốn sổ ghi chép vốn không dành cho công luận này, việc chọn, bỏ, sử dụng nguyên văn hay can thiệp vào văn bản, dù chỉ là sửa chính tả, đều đặt người biên soạn trước những quyết định khó khăn, nhất là khi phần ghi chép về CCRĐ của Trần Dần lại nằm tương đối không theo trật tự thời gian trong 3 cuốn số khác nhau. Người biên soạn mong được sự thông cảm và hi vọng khi toàn bộ di cảo của Trần Dần được công bố, dựa trên bản gốc dễ đọc hơn, những sai sót nếu có trong văn bản sau đây chắc chắn sẽ được sửa lại.

Phạm Thị Hoài

___________

Vụ tự sát ở xã Quốc Tuấn

1) Nguyễn Văn Cộng 47 tuổi. CCRĐ bị duyệt là bá, hôm sau cả hai vợ chồng thắt cổ tự vẫn. Nghe bên nhà nó có tiếng động mạnh, cán bộ chủ quan cho là trâu bò cọ mình, nên không sang.

2) Nguyễn Văn Ân. Nghi phú ông, tự sát. Bị đình chỉ sinh hoạt. Ăn một bữa thịt chó cho sướng đời.

Những vụ tự sát như vậy – nhất là vụ 2 – không ngăn ngừa được thì rất hại chính trị và sai chính sách. Cán bộ kiểm điểm: tả, thiếu cảnh giác.
*
Chết vì bức tử

Ở Hoàn Long. Vợ cán bộ CCRĐ. Chị bị hậu sản, không làm ăn gì được.

Tay sai địa chủ dọa dẫm: „Chị [...] ăn bám. Chị là địa chủ rồi. Nay mai sẽ đấu, không ai đi lại chơi bời với nữa. Ra đường phải gọi trẻ con là ông.“

Chị toan treo cổ mấy lần, chú và mẹ chồng biết, ngăn lại được. Nhưng cứ bị dọa dẫm [...] đi đâu cũng không thoát. Rừng xanh núi đỏ cũng bắt về đấu. Hoang mang mãi, rốt cục bị điên đầu bể óc. Hai mẹ con cùng chết.

Địa chủ như vậy. Khi chúng mất ruộng, chúng còn cố bắt mạng của người ta.
* 
Thuốc độc

Ở Quỳnh Côi địa chủ sai người bỏ thuốc độc ám hại cán bộ CCRĐ và nhân dân. Trong 4 ngày 3 vụ liền.

Một vụ: chúng cho một em bé có 100 $, đưa em một cục bằng quả chanh, bảo em vào chơi chỗ cấp dưỡng rồi tìm cách bỏ lẻn cục thuốc vào nồi nước. Anh chị em cấp dưỡng vô tình, lại hay mến trẻ, đứa bé lên 10 kháu khỉnh ngây thơ ngày nào chả chơi ở đó, ai mà chẳng yêu.

Em bé đánh rơi cục thuốc, vỡ ra, em chỉ nhặt có một mảnh bằng ngón tay cái. Lừa lúc vô tình, em bỏ vào nồi nước.

Kết quả: 76 anh chị em cán bộ bị đi tả, nôn mửa mất 3 ngày, tưởng chết, – may có thuốc giã ngay từ hôm đầu, không có thì nguy.
* 
Đem nhà ngói trả Nông hội

Ông cụ gàn dở bị nó dọa: nhà ngói này sắp đổ. Địa chủ nó chết thành ma, nó quật đổ nhà chết người. Ông cụ hoảng quá đem nhà ra trả nông hội.
* 
Một vụ ám sát cả gia đình 7 người

Bọn Quốc dân Đảng giết cả một gia đình: 5 người con nhỏ nằm chết ngang giường, người mẹ nằm dọc, cổ tím bầm cả, chắc là bị bóp cổ. Người cha treo cổ kèo nhà. Khám thi thể không thấy hộc máu vãi cứt, tức là không phải chết vì treo cổ, mà có vết tay ở cổ, chắc bị chúng bóp chết rồi mới treo lên.

Ta mất với địa chủ 7 người, một gia đình nông dân, một cái rễ tốt, một đầu mối biết rất nhiều về bọn địa chủ và Quốc dân Đảng ở đó.
* 
Cảnh giác quá

Hội nghị họp ở Đình Bảng, đã giảm tô, bọn phản động càng hoạt động dữ: cắt điện thoại, đốt nhà một lần, ném đá hai lần.

Có anh phê bình ngay Đoàn ủy là thiếu cảnh giác. Vậy thì muốn có cảnh giác phải lên trời mà họp hay sao?

Một anh khác đóng ở một gia đình rất tốt. Anh em đi vắng, chủ nhà cất ba lô vào buồng rồi khóa. Anh ta bị ám ảnh những địch, phản động nọ kia, vội phê bình: ta mất cảnh giác cao độ! 
[...] Người ta gọi là cảnh giác quá. Quá nghĩa là lố bịch, gàn, hoảng hốt.
* 
Không mưa mà cũng có ếch

Khi thảo luận nội quy, chị X cứ thắc mắc về mục: „Thế nhỡ anh ấy ở đoàn bạn, lâu ngày mới gặp thì có được đi nói chuyện với nhau không?“.

Anh em can: Không nên đi một trai một gái nhiều quá. Tuy là vô tư nhưng nhân dân có con mắt nghi ngờ, kẻ địch có cái miệng hiểm, đàn bà có cái lưỡi bép xép, v.v…

Về sau ban đêm có hai cái bóng cõng nhau ngoài đồng. Ì ọp mãi. Có anh thấy vắng chị ở giường, mãi sau chị mới về, thay quần áo ban đêm. Anh đâm nghi, hôm sau báo cáo.

Dư luận nhân dân tức thì ngay hôm ấy có ngay câu: „Không mưa mà lại có ếch. Ếch to lắm, cõng nhau ngoài đồng.“.

Về sau chị X mới kiểm thảo ra. Và dĩ nhiên chịu kỉ luật của đoàn.

Chị X: mắt một mí, lông mi nhổ còn một vệt cong mà sắc, hay hát „từng đoàn bươm bướm xinh, tung tăng cánh bay vờn…“, người thanh, mặt trái xoan, mắt đảo như chớp, giọng nói uốn éo.
* 
[...] figures

1. Đội trưởng Thái Hòa tên là ông Liễu. Người gày đét, quần áo nâu bạc, khoác một cái vét ton tím, có giòng giọc trắng đã bạc, cổ áo đã sờn, khuỷu tay áo rách lòi vải lót trắng. Mũ trắng phở. Đeo kính. Mặt khô đét. Nhưng đôi môi dầy lúc nào cũng mở làm cho bộ mặt có cái gì dễ tính. Cả mặt chỉ có đôi môi là có duyên. Cả mặt chỉ thấy môi. Thành phần gì? – Trung nông. Quê đồng chí phát động chưa? – Chưa. Vậy thì cái trung nông ấy là có vấn đề đấy. Đánh một cái dấu hỏi. Ông Liễu cười khì.

2. Đội trưởng đoàn giảm tô Vĩnh Phúc trước sát nhập sang đây chỉ làm đội viên. Trên 40 tuổi. Mắt to, vuông. Mắt sâu vào lỗ, xong lại lồi lên trong đáy, viền đỏ; khi nhìn cứ trờn trợn đôi mắt toét lên, lông mày nhấp nháy, đôi môi mỏng mà sắc, hai mép nhọn hoắt cứ mấp máy, bộ mặt tuy xanh vàng nhưng có lẫn những vầng máu đỏ nó tụ lên, cổ khoác khăn mặt, quần áo nâu mới, dáng cứng, tất cả toát lên một cái vẻ gì hào lý cũ. Ăn nói sang sảng, gọi người trống không. Có ai thắc mắc gì không? – Không đâu, nhưng tổ tôi có lẽ có anh Tôm anh Tiếc gì đấy thắc mắc sát nhập gì đó… Phải không?… Có thì nói lên… Nhưng không ai nói cả… Ông ta cười.

Bên kia làm đội trưởng, sang đây làm đội viên, ông ta có thắc mắc ngầm nhưng không nói, định xui bẩy đội viên khác nói. Phát biểu ra vẻ đành hanh, kiểu ta đây biết rồi: – Kinh nghiệm bên Quỳnh Côi thế này là ổn lắm… Chứ đây thì…

Làm ra vẻ không có thắc mắc, càng cố tích cực. Ban sáng, xắn quần gánh một gánh nước đầy về cho anh em rửa mặt. Đấy, nước đấy các cậu ạ… Chiềng hết người này người nọ.

Hội trường kém 7 đầy 5 nghìn người, mà ông ta đề nghị: ra từng đội, hết đội này đến đội khác cho nó có trật tự! Người ta phản đối, vì lâu quá, mất 4,5 tiếng đồng hồ sao? Ông ta nhất định giữ ý kiến: cần phải trật tự. Người ta có cảm tưởng ai làm việc với ông ta sẽ bị biến thành con cờ gỗ, tùy ông xếp đặt cho nó đẹp mắt, gọn gàng, khỏi lung tung có vấn đề gì lôi thôi cho ông ta.

Tôi xin thảo luận, theo tôi thì anh em ở cải cách mới có biết chứ chúng tôi ở giảm tô thì biết sao được. Mà theo Đảng ủy thì bảo rằng bên cải cách là chính cơ mà.

Phát biểu gì là có tính cách thay mặt anh em Vĩnh Phúc. Kiểu anh chị. Hay cãi. Hay chối. Hay chiềng. „Sở dĩ tôi nói thế là vì… Ý tôi là thế này cơ… Đấy tôi làm việc ấy đấy…“
* 
Gọi „bà Quản“ là mất 5 cân gạo

Đội vừa về, đi đâu thấy dân đang nói chuyện bỗng im thin thít. Mãi sau mới là vì có tin tung ra đội phát động về, hễ ai gọi ông bà là bị phạt 5 cân gạo. Thành ra dân sợ, giữ mồm miệng. Nếu nói kiêng thì phải kiêng nhiều lắm: Ông Quản, bà Lý, ông Hào, cụ Thơ, ông Chánh, bà Giáo…

Đã biết ai là địa chủ ai không mà tránh? Đâu mà đã dễ đổi giọng lưỡi, hôm qua ông bà, hôm nay thằng ngay? Đó là tâm lý của nhân dân. Chi bằng giữ miệng là hơn.
* 
Vụ lựu đạn Xã Cảnh Hưng (Phủ Từ Sơn)

9 người chết, 39 người bị thương. Đang hội nghị, nhân dân thì bị ném lựu đạn. Sau bắt ra thủ phạm: con địa chủ, là học sinh, mới ở Hà Nội về.
* 
Cấm thoái tô

Chúng cấm không địa chủ nào được thoái tô cho nông dân. Một địa chủ xin ta về sớm mai sẽ trù tính thoái tô. Chúng lẻn ban đêm vào bóp cổ cả hai vợ chồng địa chủ này; xong đem lên gác, buộc thừng vào cổ, chằng hai đầu vào hai tay, xếp hai vợ chồng sóng soài trên sàn gác, làm như họ tự vẫn.

Chúng giết lẫn nhau để cảnh cáo nhau và để vu cho cán bộ ta.
* 
Lương giáo

Lương giáo gặp nhau, tránh vào ngõ, rẽ đường khác. Đang ngồi hàng bỏ đi. Không thèm nói với nhau một câu nào.
* 
Giết rễ

Ông cụ đi đồng về. Vợ đang phơi thóc ngoài sân. Ông cụ ngả nón vào buồng định nghỉ hút điếu thuốc. Lát sau bà vợ vào thấy chồng nằm thẳng cẳng. Trên mái nhà có một lỗ hổng.

Chúng rỡ mái ra vào bằng đường ấy, giết mất ông cụ.
* 
Ta khác địa chủ

Một anh cán bộ X thấy tịch biên gia sản của địa chủ, lại tịch thu từ cái tã của con cái nó. Anh thương lắm.

Anh Y bảo: Thường gì nó? Nó có thương con cái nhân dân mình đâu?

Anh X đáp: Tôi nghĩ ta khác địa chủ ở chỗ đó. Những đứa bé con kia có tội tình gì? Chúng nó giết trẻ con. Chúng ta cứu trẻ con chứ, Mà phải cứu cho trẻ con thoát cả khỏi ảnh hưởng bố mẹ nó nữa chứ.
* 
Không đem xe đạp – Ông tỉnh đội trưởng không biết gì

Trước khi đi, ông tỉnh đội trưởng không biết nghe đâu về nói ầm ầm với anh em những đi cải cách phải mặc quần áo nâu, không được mang theo xe đạp… Ông ấy gắt ngậu lên cơ mà. Đem xe đạp đi mà nát nông dân à?

Thế là có anh gửi, có anh bán xe đáng 8, 9 vạn chỉ bán 6, 7 vạn thốc tháo đi. Tới nơi mới thấy là không có xe đạp thì khổ quá [...] dại quá, nghe ông tỉnh đội trưởng không biết gì ấy đâm ra khổ. Phàm ở đời, những anh không biết gì lại là những anh ngậu xị, nhắng nhất.

Gắt: Đi cải cách mà ăn vận công tử vậy à (quân phục mới)? Xe đạp với xe điếc, đem đi người ta lại đuổi về cho ấy à? Đừng có làm xấu hổ tỉnh đội ta đi. Tôi xin các ông, các ông miễn cho cái món xe cộ xa xỉ ấy đi cho. Ba cùng mà lại còn kè kè cái xe bên cạnh sao? Giải quyết thế nào á? Gửi đi… Bán đi… Chiều nay là lên đường rồi… Lại còn coi cái xe hơn là cải cách sao?…
* 
Gánh củi đi nhanh

Cán bộ ba cùng với một anh làm nghề đốn củi rừng bán kiếm ăn. Ban sớm đi theo anh vào rừng. Anh ta đi thoăn thoắt, cán bộ theo không kịp, một lát thì thấy mất hút, vào rừng tìm mãi mới thấy anh ta thì bó củi đã to rồi. Cán bộ đẵn giúp ít cành, cũng chưa kịp phát động gì cả. Anh kia bó vội thành hai bó, xâu đòn gánh chạy về. Cán bộ đuổi theo không kịp. Loáng cái lại mất hút. Cán bộ nghĩ có lẽ anh ấy sợ cán hộ hay sao? Có vấn đề gì mà cứ lẩn như vậy?

Mãi sau mới biết: chỉ vì anh ấy không có gạo, phải vội đi vội về, bán củi lấy tí gạo mà ăn.
* 
[...]

Cạnh thị xã Bắc Ninh. Hơn 4000 người/ 43 địa chủ.

Một tên giả điên cầm dao đi các xóm thực hiện âm mưu đe dọa, phản tuyên truyền, của địa chủ.  Một ông cụ trung nông, gù, mất lao động, ăn nhờ gia đình bị đe dọa là Việt Minh sẽ đấu, coi là địa chủ. Ông hoảng hốt định tự vẫn.

Bọn phản động bàn nhau giết hai tên đã già mà hay hoang mang của chúng (Côn và Mưu). Để khi đội về sẽ tố cả vào hai tên đã chết ấy.

Con giai giết bố (Tuân)

Tây: như nắm tay co vào rồi sẽ duỗi ra. Nhân dân đấu địa chủ. Tây về, địa chủ lại đấu nhân dân. 
Ai có tội, ngụy quân ngụy quyền v.v… Việt Minh nó sẽ đấu hết. Chào thầy Cai,… Chết bà mất lập trường rồi.
* 
Đấu tên Bút

Anh Bông là một anh em họ, làm thẩm phán. Anh nói đến một tiếng đồng hồ để thanh minh sự liên quan của anh với tên Bút. Quần chúng xì xào, anh em với nó thì kể lể gì? Ai cũng sốt ruột. Cán bộ véo anh Bông hai lần, véo cái nào Bông càng thanh minh dài dòng mãi. Trời nắng nhễ nhại. Cuối cùng Bông cũng im, hết lời lải nhải.

Trong khi đấu, tên Bút cứ nhìn lên trời. Anh Bông tố. Xong hỏi, Bút, mày có nhận không? – Dạ thưa ông, bố ông chết tôi phải chôn, mẹ ông đi lấy chồng tôi phải rước ông với các con ông về nuôi. Ông tố vậy, chúng tôi xin nhận là có ạ. Xong nó lại nhìn lên trời cười ha hả.

Quần chúng có người cười. Có người mắng: Lại còn cười, mất cả lập trường. Có người chửi sư thằng phản động. Có người trách: Cái anh Bông mới dại chứ! Mà sao thẩm phán cứ ngồi im cả thế kia! Nắng quá càng thêm khó chịu.

Kết quả: phải ngừng cuộc đấu lại.
(còn tiếp)

© 2014 pro&contra



[1] Vì những tội: 1) cùng 5 văn nghệ sĩ khác đệ trình „Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa“ yêu cầu tự do sáng tác và sửa đổi chính sách quản lý văn nghệ trong quân đội; 2) quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo; 3) viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng. (Các chú thích trong bài đều của người biên soạn.)
[2] Nhà văn Hoàng Yến (1922-2012). Bài viết được nhắc tới là bài „Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?“ viết ngày 28/2/1955, đăng trên tập san Sinh hoạt Văn nghệ số 35, báo Văn nghệ và báo Nhân dân. Xem talawas, 9/7/2005.
[3] Nhà văn Văn Phác (1926-2012). Ở thời điểm năm 1955, ông là Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ Quân đội, cơ quan của Trần Dần. Sau này ông trở thành Bộ trưởng Văn hóa, Ủy viên BCHTƯ Đảng, đại biểu Quốc hội.
[4] Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác (1928-2013)

1 nhận xét :

  1. Cảm ơn Pham Thị Hoài .Đây là một tư liệu văn học quý mà bây giờ tôi mới đươc đọc

    Trả lờiXóa